Friday, January 30, 2015

Lá Thư Tuần thứ 12 của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo

PARIS, ngày 19.1.2015 (PTTPGQT) – Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin hân hạnh giới thiệuLá Thư số 12 của Thượng toạ Chủ tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo thông báo cùng nói lên ý nghĩa của buổi Hội thảo nhân quyền dưới chủ đề “Khái nhiện Nhân quyền trong lịch sử Việt Nam” được tổ chức tại Chùa Phật Quang, thành phố Hungtinton Beach, Nam California, Hoa Kỳ, nhân dịp Lễ An vị Phật tại ngôi chùa vừa tạo mãi làm trụ sở hoạt động của Văn Phòng II Viện Hoá Đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa kỳ.
Nhân quyền là gì ? Thực hiện cuộc đấu tranh đòi hỏi nhân quyền cần quan niệm ra sao ? Lâu nay nhân quyền được xem như cuộc đấu tranh Chống Cộng của đa số người Việt, sự việc ấy như thế nào ? Ý nghĩa và hành hoạt cho hai chữ nhân quyền thường bị trừu-tượng-hoá, nếu không nói mơ hồ, có đưa chúng ta vào trung tâm chuyển hoá việc bảo vệ con người cá thể trong một quốc gia ? Lá thư tuần thứ 12 kỳ này gợi ra những chất vấn nhằm nắm vững mạch ngầm của nền Văn hoá Nhân quyền từ Tây sang Đông. Xin mời Bạn đọc vào Trang thư thứ 12 :
bodhi1

Lá Thư Tuần thứ 12 :Hội Thảo Về Nhân Quyền

Ngày thứ bảy 7 tháng 2 năm 2015 sắp tới, chùa Phật Quang, ở thành phố Huntington Beach, tổ chức lễ An vị Phật. Ngoài phần chánh lễ, Giáo hội cũng tổ chức một buổi hội thảo và họp báo. Chủ đề của buổi hội thảo là : “Khái Niệm Nhân Quyền Trong Lịch Sử Việt Nam”. Ba diễn giả được mời là GS Võ Văn Ái – chủ tịch Uỷ Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam có trụ sở tại Paris, Pháp Quốc, Luật sư Đỗ Thái Nhiên – tác giả biên khảo “Một Quan Niệm Chung Cho Nhân Quyền”, và nữ sĩ Ỷ Lan Penelope Faulkner – người lặn lội nhiều thập niên trong nỗ lực vận động nhân quyền cho Việt Nam. Cựu trung tá Võ Ý là người điều hợp. Lễ An Vị Phật là nghi thức xác lập một nơi trở thành Phật địa với sự tôn trí tượng Phật để phụng thờ. Tất nhiên là rất thiêng liêng đối với ngôi chùa chung vừa tạo lập. Trong phiên họp bàn về việc tổ chức lễ, tất cả thành viên Văn Phòng II Viện Hoá Đạo đều tán thành có một buổi hội thảo và chủ đề là Nhân Quyền Trong Lịch Sử Việt Nam. Đề tài nầy liên hệ tới đường hướng vận động nhiều thập niên qua của Giáo hội mà nhị vị Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ là hai bậc lãnh đạo tiêu biểu. Nhân quyền, dân chủ cũng là cơ sở hành động của cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản. Ngôi chùa của Giáo hội tại thủ đô người Việt hải ngoại tổ chức buổi hội thảo với đề tài như vậy trong đại lễ đầu tiên là nội dung đáng hoan hỷ.
KHI NGÔN NGỮ TRỞ THÀNH SÁO NGỮ
Không có thời nào ngôn ngữ bị lạm dụng như ngày nay. Ngay cả những nước độc tài toàn trị cộng sản như Bắc Triều Tiên vẫn dùng danh nghĩa là Cộng Hoà Dân Chủ. Người ta dùng những mỹ từ cao đẹp như một thứ thương hiệu không hơn không kém. Loài người tự cổ chí kim vẫn thường rơi vào tình trạng gạt người lâu ngày rồi gạt chính mình không hay. Nhân quyền là một trong những từ vựng được dùng để tuyên truyền đôi khi trở thành vô nghĩa. Trong Đại Học Hè Phật Giáo năm 2014 tại chùa Pháp Luân Houston, Texas, chị Ỷ Lan có sáng kiến chiếu một đoạn phim nói về khái niệm nhân quyền. Đoạn phim ngắn nhưng nhiều người thích thú nói rằng đoạn phim đó đề cập đến những điều mình nghĩ, là đã biết nhưng thực ra chưa bao giờ nghĩ tới. Cũng giống như chúng ta thường nghĩ luật pháp có bổn phận trừng trị tội phạm nhưng thực ra cũng có bổn phận bảo vệ không để phạm nhân bị hành hạ quá đáng. Vấn đề muôn thuở là có những giá trị cao đẹp lẽ ra có ảnh hưởng lớn đến tư duy con người, nhưng vì lạm bàn, thậm xưng hoá thành vô nghĩa, rỗng tuếch. Đức Phật từng khuyên : “Chớ đi quá xa giá trị tương đối của ngôn ngữ” (Kinh Tăng Chi II). Có vô số trường hợp người ta nhân danh tôn giáo thiêng liêng để thảm sát người vô tội, buôn bán phụ nữ như nô lệ mà ISIS là một thí dụ. Ngay trong cộng đồng chúng ta đôi khi một người dùng chủ trương dân chủ, nhân quyền để mạ lị, phỉ báng người khác không tiếc lời. Người ta nhân danh sự thật để rao truyền những điều lừa mị. Chính vì vậy rất cần thiết để chúng ta ngồi lại định nghĩa và xác lập được giá trị chân thật đối với những điều thường được nói bây giờ trở thành khuôn sáo. Nhân quyền thật ra không thể hiểu đơn giản là quyền làm người theo định nghĩa của từ điển.
ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG
Ngày xửa ngày xưa có một cõi thênh thang. Thời mà những danh từ hiến pháp, tự do, dân chủ, nhân quyền chưa được biết tới. Thế mà đã có một thái hậu nhà Đinh đặt một bên ngai vàng của dòng tộc để trao cẩm bào cho một anh tài lên ngôi giữ nước ; một vị vua nhà Lý thấy xót xa khi nhìn những tù nhân trong ngục thất lạnh lẽo khi đông về rồi ra lệnh ban cho chăn ấm ; một vị vua nhà Trần đã ra lệnh tiêu huỷ sớ biểu có danh tánh những người a tòng theo giặc khi Mông Cổ chiếm Thăng Long ; giữa thời quân chủ mà có những hội nghị Bình Than, Diên Hồng để người người lên tiếng góp phần cho đại cuộc.
Ông bà chúng ta quả có những thời văn minh, thịnh trị. Thời đại hoàng kim đó không phải chỉ để lại những trang sử vẽ vang cho giống nòi mà còn là nguồn minh triết chứa đựng bao thứ tinh hoa. Tìm lại dấu xưa để thấy rằng kim cổ, đông tây tuy khác hoàn cảnh, khác ngôn ngữ nhưng thời nào cũng vậy, sự yêu thương, tha thứ, tôn trọng để lại biết bao hình ảnh đẹp. Vận dụng được trí lực của tiền nhân sẽ cho chúng ta cơ hội nhận ra khái niệm nhân quyền phù hợp với quê hương và dân tộc Việt Nam. Tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên đã là sự dung hợp khôn ngoan mà tổ tiên chúng ta tìm sự cộng sinh giữa các nền đạo giáo.
Buổi hội luận về nhân quyền tại chùa Phật Quang 7-2-2015 sắp tới sẽ không giống như nhiều buổi hội luận khác về đề tài nầy. Chúng ta sẽ đi ngược dòng thời gian để tìm hiểu tổ tiên Việt Nam đã quan niệm thế nào về nhân quyền và điều đó có giá trị gì đối với thế giới hôm nay.
CHO CUỘC ĐỜI CŨNG LÀ CHO CHÍNH MÌNH
Những pháp tu trong Phật Pháp như ngũ giới, tứ vô lượng tâm… thường mang đặc tính thương chúng sanh chính là thương mình. Năm giới không sát hại mạng sống, không lấy của không cho, không tà hạnh, không nói sai sự thật, không say sưa mê loạn, đều liên hệ bản thân và tha nhân. Hành trình giác ngộ giải thoát cũng y cứ trên sự cảm nhận sâu sắc nỗi khổ đau của vạn loài chứ không phải chỉ riêng bản thân. Như vậy nhân quyền trong Phật Pháp không phải là có người ban bố và kẻ được ban bố mà là ý thức sự liên hệ mật thiết giữa con người và thế giới chung quanh.
Ngày nay người ta cũng hô hào sự bình đẳng giữa con người. Nếu đọc kỹ kinh điển thì chúng ta thấy Đức Phật dạy vấn đề không đơn giản là san bằng tất cả sai biệt thì xã hội bình đẳng. “Không phải do giòng dõi thọ sanh, mà một người thấp hèn hay cao quý, mà chính do hành vi tạo tác khiến con người cao quý hay thấp hèn” (Kinh Pháp Cú, KHUD.) Như vậy sự tự do, bình đẳng không phải là một tặng vật từ người khác mà chính do sự hiểu biết và hành động của người đó. Chỉ hô hào khai phóng không đủ. Một người nô lệ sẽ không thể tự do nếu còn hành xử với tư duy nô lệ.
Những lần đi phi cơ, người tiếp viên hành không thường nhắc khi hữu sự cần mang mặc nạ dưỡng khí, thì mang cho mình trước rồi giúp cho người bên cạnh. Điều nầy tương tự như lời Phật dạy : “một người muốn kéo người khác ra khỏi vũng lầy thì mình phải ra khỏi trước” (Kinh Tương Ưng, SAM II). Những chiến sĩ của tự do, dân chủ, nhân quyền trước nhất là những người hiểu rõ những thứ đó từ hơi thở và cuộc sống của mình. Chúng ta hãy truyền đạt cho nhau giá trị nền tảng của nhân quyền vì thiếu điều đó sự dấn thân của chúng ta trở thành vô nghĩa.
CUỘC HÀNH TRÌNH ĐÒI HỎI SỰ KIÊN TRÌ
Có một nghịch lý của cuộc sống là đa số thứ chúng ta thích thú, hào hứng thường nhất thời. Những giá trị lâu dài thường làm nản lòng khiến người ta bỏ cuộc. Trong một lần gặp gỡ giữa Giáo Hội và Phật giáo Tây Tạng tại Paris Pháp Quốc, Đức Đa Lai La Ma đã nói với Hoà Thượng Thích Hộ Giác, lúc đó là Chủ tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo, “ việc vận động cho nhân quyền đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn từ năm nầy sang năm khác. Có khi bỏ công sức rất nhiều mà kết quả rất mơ hồ. Nhưng không thể không làm”. Có làm việc với Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế mới thấy thương sự cố gắng trường kỳ. Chuẩn bị tài liệu, liên lạc tiếp xúc, tất bật ngược xuôi nhưng kết quả không phải là thấy liền mà là một nỗ lực năm nầy qua năm khác trong sự chật vật nhân sự, tài chánh trăm bề.
Có thể nhiều người nghĩ rằng nhân quyền là một đề tài chuyên môn cho người tranh đấu, kỳ thực điều nầy liên hệ trực tiếp đến tất cả chúng ta. Cũng có thể nghĩ rằng đề tài vốn quá quen thuộc vì thường được nói đến. Trên thực tế những gì chúng ta đòi hỏi cho mình chưa hẳn là điều chánh đáng trong lúc những quyền nên có thì đa số lại mơ hồ. Cũng có thể cho rằng trong ý hướng mưu cầu tương lai tươi sáng cho quê hương dân tộc nằm ở kinh tế, chính trị chứ không phải là nhân quyền, có chăng chỉ là một khẩu hiệu chống chế độ độc tài đảng trị mà thôi. Nếu xét kỹ thì nếu Việt Nam có được những quyền làm người căn bản thì đất nước đã khác hẳn.

Với Lễ An Vị Phật, chùa Phật Quang chính thức bắt đầu giai đoạn sinh hoạt tại cộng đồng đông đảo nhất của người Việt tại hải ngoại ở miền Nam California. Chúng ta hãy cầu nguyện và góp phần để sinh hoạt của ngôi chùa làm tròn được cả hai vai trò : sinh hoạt theo đường hướng của Giáo hội và phục vụ cộng đồng với tư thế một trung tâm tín ngưỡng tôn giáo, văn hoá, giáo dục, xã hội. Riêng với buổi hội thảo trong dịp lễ An Vị nầy chúng ta cầu mong là khái niệm về nhân quyền sẽ là mẫu số chung cho tất cả những ai ưu tư về tiền đồ của đạo pháp và dân tộc. Sự góp mặt của những diễn giả vốn là những người hoạt động lâu năm trong lãnh vực nầy chắc chắc sẽ có những chia sẻ và đề xuất quan trọng.
Thắp sáng nhận thức chân chánh tự nó là một đóng góp lợi ích cho cuộc đời.
Pháp Luân, 29.1.2015
Tỳ kheo Thích Giác Đẳng

Friday, January 23, 2015

Thư mời tham dự Lễ An Vị Phật tại Chùa Phật Quang


PARIS, ngày 22.1.2015 (PTTPGQT) – Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin hân hạnh gửi tới quý cơ quan truyền thông báo chí, đồng bào các giới và đồng bào Phật tửThư Mời tham dự Lễ An vị Phật tại ngôi Chùa chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại : chùa Phật Quang, toạ lạc tại 17101 A Lane – Thành phố Huntington Beach – California 92647 – USA / Hoa Kỳ, như bước tiến thứ hai sau khi xong việc tạo mãi.

Đồng thời xin giới thiệu Lá Thư số 11 của Thượng toạ Chủ tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo vạch ra tinh thần mới trong sinh hoạt của Giáo hội, mà nhân sự đại diện có mặt khắp nơi, là vấn đề cơ yếu. Một nhân sự chung lòng, và xuất hiện từ khối hạ tầng Tứ chúng, chứ không còn là sự tập trung thiểu số thượng tầng để bảo vệ chức vụ, thay vì thi hành nghĩa vụ hoằng pháp cao cả ở thời đại tối tăm của dân tộc và đạo pháp. Sự thay da đổi thịt của một tổ chức, đất nước, hay tôn giáo, luôn khởi phát từ tinh não khai phóng, thanh xuân, chứ không bằng sự lão hoá tâm thần, trì trệ tồn đọng đã bao nhiêu năm ròng.
 header_VP2VHD_Chua-Phat-Quang-2015Phật lịch 2558                                                                                                 Số 01/VP2VHĐ/PQ/CT

THƯ MỜI LỄ AN VỊ PHẬT

Trong niềm hoan hỷ vô hạn với sự tạo lập ngôi Chùa Phật Quang 17101 A Lane Huntington Beach CA 92647 tại miền nam California, Giáo Hội sẽ tổ chức Lễ An Vị Tôn Tượng Phật vào ngày Thứ Bảy 7 tháng 2 năm 2105 với sự chứng minh của chư tôn giáo phẩm, chư vị thành viên các hội đồng. Đại lễ cũng chính thức đánh dấu sự hoạt động của ngôi chùa chung như sự mong đợi của Phật tử bốn phương.

Chương trình gồm ba phần.

Phần thứ nhất, CHÁNH LỄ AN VỊ PHẬT, khởi sự từ 10:30 sáng với lễ trai tăng, lời chào mừng của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, đạo từ của Đức Đệ Ngũ Tăng Tăng Thống, huấn từ của Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo, lễ cúng Tam Bảo, nghi thức an vị, thuyết pháp đề tài : “Thấy Pháp Là Thấy Phật”, cơm trưa của đại chúng.

Phần thứ hai, Hội Thảo KHÁI NIỆM NHÂN QUYỀN TRỌNG LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM, từ 1:30 trưa tới 3:30 giờ chiều, do Văn Phòng II Viện Hóa Đạo và Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc tế thực hiện. Đây là một trình bày về cái nhìn nhân quyền qua lăng kính Phật giáo được ghi nhận trong lịch sử qua hai triều đại thịnh trị của Việt Nam là nhà Lý, nhà Trần.
Phần thứ ba, HỌP BÁO, từ 3:30 tới 5 giờ chiều, Giáo hội sẽ dành thì giờ trả lời những ưu tư, thắc mắc của giới truyền thông và quần chúng về hiện tình GHPGVNTN và sự tạo lập ngôi chùa Phật Quang.

Sự hiện diện của quý vị là một niềm hoan hỷ lớn cho toàn thể Giáo hội.

Trân trọng kính cung thỉnh chư tôn đức, kinh mời các tổ chức, đoàn thể cộng đồng người Việt quốc gia, các cơ quan truyền thông, cùng toàn thể quý đồng hương, quý Phật tử về chùa cùng chia sẻ và cầu nguyện cho ngày lễ thiêng liêng đầy ý nghĩa nầy. Mọi chi tiết xin liên lạc Chùa Phật Quang (657) 464-9335, Đạo hữu Nguyên Hòa (310) 951-8863, Đạo hữu Thiện Quảng (714) 622-8468.
Nguyện cầu Phật gia hộ chúng ta.

Tỳ kheo Thích Giác Đẳng
Quyền chủ tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo GHPGNVNTN
Kiêm Chủ tịch GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ

bodhi1

Lá Thư Tuần 11 :Những ai, và ai làm gì cho Giáo hội ?

Lá thư nầy đúng ra phải được viết từ đầu tháng. Ba tuần đầu năm 2015 là thời gian “khởi động” của các đề án cho 10 tháng tới. Chính vì vậy lá thư nầy gởi đi khá trễ. Chúng ta hãy bắt đầu bằng điều quan trọng nhất trong hoạt động của Giáo Hội là nhân sự. Nếu phải nói một điểm thôi về yếu tố thành bại của Phật sự trong năm thì phải là có những ai và ai làm gì ? Cộng đồng Phật giáo có tiềm lực to lớn về nhân sự. Những Phật tử tài năng, có đạo tâm và thiện chí không thiếu. Những ngôi chùa to lớn không phải tài sản đạo giáo mà chính là những con người chuyên chở thông điệp thiêng liêng và thể hiện những giá trị cao cả. Ở giai đoạn nào cũng có những điều thuận và nghịch. Điểm quan trọng là chúng ta tập trung vào những điều có thể làm được hơn là cứ than phiền những trở ngại rồi ngồi bó gối.

NHỮNG BÀI HỌC QUÁ KHỨ

Chúng ta biết ơn tiền nhân đã khai quang con đường đã đi. Không có nghĩa vì vậy mà phải chấp chặt phương cách của người đi trước. Với địa bàn sinh hoạt Giáo hội rộng lớn ngày nay thì cơ cấu tổ chức ngày trước có phần thiếu thực tiễn ; hơn hai thập niên qua chưa có một vị chánh đại diện miền nào quán xuyến hết Phật sự trong phần hành của mình. Các tổng vụ cũng gần như vậy ; sự chuyên môn của công việc thường vượt tầm của những bậc Tăng Ni vốn đã quá bận với chùa chiền của mình. Trong lúc một người có chức vụ rất lớn không biết làm thế nào chu toàn trọng trách, thì có một số lớn những người có khả năng, có thiện chí đứng bên ngoài như người ngoại cuộc dù rất thiết tha đóng góp. Chúng ta quá nặng hình thức danh vị ; một vị hoà thượng đã thốt lời : tôi không thấy hãnh diện gì khi được giới thiệu quá nhiều chức danh vì thực tế không làm được gì nhiều mà chỉ để giới thiệu dài dòng trong các buổi lễ. Sự bám giữ chức vụ quá lâu của những người trong tổ chức cũng tạo nên những buồn nản đáng tiếc. Chúng ta than thiếu người làm việc nhưng lại xây lên nhiều rào cản để cuối cùng tạo nên một bộ máy cồng kềnh mà hiệu năng rất kém. Thiếu can đảm nhận chân những vấn đề của mình thì sẽ tiếp tục dậm chân một chỗ.

CẢI THIỆN TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG THỨC LÀM VIỆC

Không nghi ngờ gì nếu muốn thực hiện công việc tốt thì cần người chuyên môn. Một vị tăng sĩ xây được một ngôi chùa lớn không hẳn là người giỏi về tài chánh. Giáo hội cần những người có khả năng thật sự cho những việc chuyên môn. Cuối năm rồi quốc hội Châu Âu đã mời một số những cá nhân và tổ chức chuyên về nhân quyền đến hướng dẫn họ về tình hình nhân quyền tại các quốc gia độc tài. Hỏi đúng người, đúng chuyện sẽ tiết kiệm nhiều thì giờ và công sức.
Giáo hội phục vụ chung cho tất cả mọi tầng lớp. Ni giới có đông mà tiếng nói của chư vị ni sư trong sinh hoạt chung ít ỏi thì chúng ta khó phát triển. Sự đại biểu cho mọi thành phần của tứ chúng là quan trọng trong guồng máy giáo hội. Phải kể thêm nhu cầu của giới trẻ và những người thuộc nghề nghiệp phổ thông trong cộng đồng. Có hiểu được tất cả thì mới có sự quân bình trong đường hướng chung và tránh được những những quyết định phiến diện, một chiều.
Ngày nay người Việt có mặt khắp nơi trên các châu lục. Những đại biểu cho các địa phương là điều cần thiết. Không thể sinh hoạt cả một quốc gia hay một tiểu bang chỉ quy vào một người. Trên phương diện điạ dư thì số người đại diện cho giáo hội cần tương thích với mật độ người Việt định cư. Phật Pháp dạy rằng chúng sanh có duyên lành khác biệt. Nhiều khi một người không cộng tác tốt với người nầy nhưng lại cống hiến nhiều khi hợp tác với người khác.

LỜI MỜI GỌI CHÂN THÀNH
ĐỐI VỚI NHỮNG TẤM LÒNG CHÂN THÀNH


Trong việc tạo lập ngôi chùa chung, Chùa Phật Quang, chúng ta bỗng nhiên tìm ra hơn 2000 người phát tâm hỗ trợ Giáo hội ở hoàn cảnh khó khăn. Tất nhiên con số đó còn tiếp tục tăng thêm. Những người nầy chỉ thương Giáo hội, thương Đức Tăng Thống và mong gìn giữ sự tồn tại của Giáo hội trước mọi tình huống. Chỉ vậy thôi không cầu mong hay hậu ý gì. Chúng ta hãy gọi những người đó là những tấm lòng chân thành.
Đại hội thường niên năm 2014 đã thông qua một quyết định quan trọng là mời đón tư cách thành viên cá nhân thay vì chỉ có thành viên các hội đồng và đơn vị cơ sở. Nói cách khác bất cứ cá nhân nào cùng chấp nhập sự lãnh đạo của Hội Đồng Lưỡng Viện và tuân thủ những điều lệ cần thiết thì đều có thể tham gia sinh hoạt Giáo hội trong tư cách thành viên cá nhân (individual membership).
Xin thay mặt Giáo hội chân thành mời thỉnh 2000 cá nhân đã góp phần kiến tạo chùa Phật Quang trở thành những thành viên danh dự khởi đầu. Đã đến lúc những người thật tâm tha thiết với tiền đồ giáo hội được lắng nghe, được tham dự những quyết định trọng đại và được biết rõ đường hướng hoạt động của Giáo hội.

VAI TRÒ QUAN YẾU CỦA NHỮNG UỶ VIÊN CÔNG CÁN
Trong quá khứ Giáo hội từng bổ nhiệm một số ít uỷ viên công cán cho một số Phật sự đặc biệt nào đó. Tháng tới nầy Giáo hội sẽ bổ nhiệm 72 Ủy viên Công cán. Trong số đó 5 người ở Úc Đại Lợi, 5 người ở Âu châu, 7 người ở Canada, 10 người ở Nam Cali, 10 người ở Bắc Cali, 7 người ở Houston, 7 người ở Dallas, 3 người ở Florida, 2 người ở Oklahoma, 4 người ở Denver, 2 người ở Oregon, 5 người ở Seattle, 5 người ở vùng Đông bắc Hoa kỳ.
Họ là những người có đầy nhiệt huyết, có khả năng mời gọi sự tham gia của những Phật tử hữu tâm khác, là người vừa đại diện trung ương mà cũng đại diện địa phương, với khả năng chuyên môn cho lãnh vực nào đó. Những Ủy Viên Công Cán qua các phiên họp hằng tháng sẽ nắm rõ hiện tình và đường hướng để chuyển đạt đến tất cả thành viên. Họ là những commissioner, cũng là team leader.
Các Ủy viên Công cán sẽ là thành phần chủ lực cho những đề án mà Giáo hội đang hướng tới trong 10 tháng trước Đại Hội X. Chúng ta hãy chúc mừng và cầu nguyện cho tất cả Ủy viên Công cán chu toàn những trọng trách Phật sự. Và cũng cầu nguyện cho mỗi chúng ta lên đường với tâm tư an lạc, vô tranh, vô cầu.
Viết tại ngôi Chùa chung 22.1.2015
Tỳ kheo Thích Giác Đẳng

Wednesday, January 14, 2015

Phật Giáo Tại Hàn Quốc - Các Ngôi Chùa Vùng Núi

Phật Giáo Tại Hàn Quốc
Các ngôi chùa vùng núi ở Hàn Quốc chuẩn bị ghi danh vào Di Sản Thế Giới UNESCO

Chùa Busoaksa (Trụ sở của giáo phái Jogye Order Phật Giáo Hàn Quốc

The Korea Herald, July 27-2014

Minh Hạnh chuyển ngữ 


Seoul, Hàn Quốc - Hàn Quốc đang cố gắng với rất nhiều nỗ lực để các ngôi chùa Phật giáo truyền thống của dân tộc được chấp nhận là Di sản Văn hóa Thế giới UNESCO với việc thành lập một hiệp hội để tạo điều kiện và giám sát quá trình giảm định cho đến năm 2018.

Giáo phái Jogye Order của Phật giáo Hàn Quốc sẽ cùng với các giáo phái khác và cơ sở  Cục Di sản văn hóa của Hàn Quốc và 12 tổ chức Phật Giáo, thành lập một ủy ban chung cho các dự án vào ngày 6 tháng 8.

Các ngôi đền chùa Phật giáo truyền thống Hàn Quốc đăng ký vào danh sách dự kiến của UNESCO về di sản thế giới là 7 ngôi chùa trong đó có chùa Magoksa ở Gongju, chùa Beopjusa ở Boeun, chùa Tongdosa tại Yangsan, chùa Buseoksa ở Yeongju, chùa Bongjeongsa ở Andong, chùa Daeheungsa ở Haenam và chùa Seonamsa tại Suncheon.

Sự việc đầu tiên để đăng ký các ngôi chùa như các vùng di sản thế giới đã bắt đầu với những nỗ lực sơ bộ của Hiệp hội Korea Brand Association vào năm 2011. Sau khi đánh giá 45 ngôi chùa truyền thống của quốc gia, Cục Di sản văn hóa của Hàn Quốc đã chọn bảy ngôi chùa để được đăng ký trong danh sách dự kiến của UNESCO vào tháng Mười Hai năm 2013.

Mặc dù các ngôi chùa Hàn Quốc như chùa  Bulguksa và chùa Haeinsa đã được công nhận là di sản thế giới được UNESCO công nhận, một số các sáng kiến gần đây đánh dấu sự nỗ lực đầu tiên của Hàn Quốc đưa danh sách nhiều đền chùa vào nhóm các khu vực thuộc di sản.

Bảy ngôi  chùa trong danh sách có những điểm chung và danh sách những giá trị độc đáo của Hàn Quốc. Tất cả đều được xây vào khoảng thời đại Silla Thống Nhất (668-935), và tất cả được giữ gìn phong cách kiến trúc cổ và kiến trúc truyền thống hình thành trong thời kỳ cổ đại. Nhiều ngôi đền, tượng Phật, tranh vẽ và hiện vật được bảo quản tốt bên trong ngôi chùa.

Nằm trên núi, các ngôi chùa cũng được ghi nhận cho sự gần gũi đặc biệt  với thiên nhiên. Không giống như các ngôi chùa Trung Hoa hay Nhật Bản, ngôi chùa Hàn Quốc không có tường bao chung quanh và được nổi tiếng đẹp nhờ nằm giữa cảnh trí  thiên nhiên, và đã được chăm sóc tốt nên phần lớn vẫn còn nguyên vẹn.

Kim Jin-sub, một nhà nghiên cứu tại Cultural Affairs Department của giáo phái Jogye Order Phật Giáo Hàn Quốc cho biết:"Các ngôi chùa vùng núi Hàn Quốc được biết đến nhờ nằm giữa cảnh trí thiên nhiên. Phong cảnh, con người và ngôi chùa kết hợp với nhau tạo thành một mối quan hệ ổn định, "

"Những ngôi chùa vùng núi thực sự thể hiện được bản chất của Phật giáo Hàn Quốc, trong đó có pha trộn các phong cách của Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Nam Á Phật giáo, nhưng thể hiện đặc điểm của triết học của Hàn Quốc," Ngài Hye-il, giám đốc của các bộ phận cho biết thêm.

Trong vài năm tới, các tổ chức mới được thành lập để xúc tiến việc ghi danh và kiểm tra các khu vực để chuẩn bị cho đến hạn cuối là tháng Sáu năm 2018

Trong khi đó, một khu vực bao gồm 9 ngôi đền là công viên Namhansanseong, là một pháo đài vùng núi ở ngoại ô phía nam của Seoul,  được ghi nhận là Di Sản Thế Giới thuộc UNESCO